THẤT ĐẠI
ĐẠI có nghĩa là bao trùm phổ biến khắp không gian và thời gian. Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Kiến, Thức, kinh Phật gọi đó là Thất Đại, vì bảy thứ này phổ biến không chổ nào không có. Không gian, thời gian, hàm tàng thất đại không dư không thiếu. Nói cách khác tự thể không gian, thời gian là thất đại ấy. Nếu tách bỏ thất đại ra, không thể có khái niệm không gian và thời gian. Do thất đại mà khái niệm không gian và thời gian được cụ thể hóa, được hình thành. Thất đại là nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng vạn hữu, duyên khởi sanh ra hiện tượng vạn hữu. Tuy nhiên nó chưa phải là một đơn vị thực thể cố định bất di bất dịch, một yếu tố đầu tiên của hiện tượng vạn hữu nào. Theo Phật học, không có một sự vật nào sanh ra mà không kết hợp tương quan với những yếu tố khác. Chỉ len không phải là yếu tố đầu tiên của chiếc áo len ấy. Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Kiến,Thức là những hình thái của chủng tử được biểu hiện rõ nét hơn trong Như Lai tàng bản thể mà thôi.
Nếu hòa hợp bởi năm đại: Địa, Thủy, Hỏa, Phong và Không, là đủ yếu tố duyên khởi ra núi sông, đất liền, cây cỏ... trong vũ trụ.
Nếu hòa hợp đủ bảy đại thì sẽ duyên khởi sanh ra những loại chúng sanh có tri giác trong vũ trụ. Ttong các loại hữu tình có giác tri, con người là ưu việt nhất.
Núi sông đất liền cỏ cây hoa lá gọi là khí thế gian, cũng gọi là Vô tình chúng sanh.
Những loài có tri giác gọi là chánh báo thế gian, cũng gọi là Hữu tình chúng sanh.
Nhìn bên khí thế gian để tìm hiểu nguyên ủy của hiện tượng vạn hữu, người ta gọi đó là Vũ trụ quan.
Nhìn bên hữu tình thế gian để tìm hiểu nguồn gốc nguyên thỉ của con người, người ta gọi đó là Nhân sanh quan.
Ta thấy Vũ trụ Nhân sinh đồng một bản thể. Như Lai tàng bản thể duyên sanh hiện tượng vạn hữu như nước duyên khởi sóng mòi bọt bong bóng vậy. Với cái nhìn của người đạt đạo, nhận thức rõ chân lý của hiện tượng vạn pháp qua quy luật: Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên, người ta tự tại an nhiên thoải mái cả trong vấn đề sống chết:
"Trường không túng sử song phi cốc
Cự hải hà phòng nhất điểm âu".
Tuệ Trung Thượng Sĩ, một Thiền sư Việt Nam đời Trần, quan niệm sự sống chết dễ dàng, không chút sợ sệt, lo âu như vậy. Tạm dịch hai câu đó như sau:
Cổ xe ảo ảnh trong không
Có ai tham đắm nặng lòng ước ao?
Mặt hồ sóng bọt lao xao
Có ai đau khổ bọt tan sóng bình?
Tóm lại, Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Kiến, Thức vốn là chân không thanh tịnh bản nhiên, châu biến pháp giới. Không có một pháp nào mang theo, đem đến cho ai một mảy may vương víu một tí tị phiền não khổ đau nào!
BẢY NGUYÊN TỐ (thất đại)
Bảy nguyên tố gồm đất (địa đại), nước (thủy đại), lửa (hỏa đại), gió (phong đại), hư không (không đại), tánh thấybiết (kiến đại) tánh phân biệt(thức đại).
Trong mục “Bốn Nguyên Tố” (tứ đại) ở trước, các nguyên tố địa, thủy, hỏa, phong, không, và thức, đã được trình bày rõ ràng, ở đây xin nói thêm về “kiến đại”. Chữ “kiến” là một thuật ngữ Phật học, trong các bộ Luận như Đại Tì Bà Sa, Câu Xá v.v..., nó được giải thích là nhìn thấy, suy lường, chấp trước; trong Kinh Lăng Nghiêm, nó có nghĩa là tánh thấy của nhãn căn, vì tánh của sắc pháp phủ trùm pháp giới nên tánh thấy này cũng phủ trùm pháp giới. Đó là ý nghĩa của “kiến đại”.
7 nguyên tố (thất đại) là thể tánh của vạn pháp (gồm sắc pháp và tâm pháp). Đất, nước, lửa, gió gọi là “bốn đại”, là thể của sắc pháp; vạn phápsinh thành đều không ra ngoài bốn nguyên tố này. Bốn nguyên tố ấy lại nương nơi hư không (không đại) mà được kiến lập, nương nơi tánh thấy (kiến đại) mà được nhận biết, nương nơi tánh phân biệt (thức đại) mà được hiểu biết rõ ràng. Trong 7 nguyên tố đó thì 5 nguyên tốđầu là đất, nước, lửa, gió và hư không thuộc về sắc pháp; 2 nguyên tố sau là tánh thấyvà tánh phân biệt thuộc về tâm pháp. Các loài hữu tìnhthì đầy đủ cả 7 nguyên tố; các loài vô tình chỉ có 5 nguyên tốđầu mà thôi.
Nếu nhìn phối hợp với “18 khu vực” (thập bát giới – xin xem mục “Mười Tám Khu Vực” ở sau), thì 5 nguyên tốđầu tương đương với 6 cảnh; nguyên tố thứ sáu, kiến đại, tương đương với 6 căn; và nguyên tố thứ bảy, thức đại, tương đương với 6 thức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét