Thứ Sáu, 7 tháng 5, 2021

THIỀN

***THIỀN: CÓ HAI LOẠI: THIỀN ĐỊNH và THIỀN QUÁN:


Thiền là quán sát đối tượng 1 cách kỹ càng và trọn vẹn. Thiền định là tập trung tư tưởng quán tưởng, cố gắng điều khiển đối tượng, trụ tâm trên 1 đề mục chế định không có thật cố định duy nhất  để được an định trong khi nhập định (đạt các tầng thiền, tứ thiền, thàn thông).  Thiền tuệ là nhận diện đơn thuần tất cả các hiện tượng thân tâm cảnh như nó đang là để thấy ra chân tướng sự thật để được giải thoát sinh tử luân hồi(vào tầng thánh …, ala hán, chứng nhập niết bàn) (Đối tượng của thiền tuệ luôn thay đổi)

THIỀN là giữ tâm/cột tâm/chú tâm đứng yên trên 1 đề mục/ đối tượng, không để nó chạy tán loạn (như khỉ chuyền cành)(như cột tâm/chú tâm vào hơi thở ra vào đan điền, như cột tâm vào câu niệm phật…). Khi tâm đứng yên trên 1 đề mục thì sẽ đưa tới định. Tâm định sẽ làm thân định theo (thân định là máu thông và hơi thở đều mịn không bị tắc nghẽn-sẽ thấy rõ hơi thở ra vào). Khi tâm định sẽ sáng suốt, hiểu biết như chân như thật - như giữ yên thau nước lóng cặn không có sóng thì thau nước sẽ trong suốt phản chiếu cảnh vật xung quanh như thật không bị méo mó. Khi tâm định tỉnh trong sáng rồi thì không cột tâm vào 1 đối tượng nữa, để nó tự do rõ biết tất cả cảnh như cảnh đang là mà không khởi niệm gọi là thiền tuệ. 

- Thiền định là cột tâm vào 1 đề mục, có thể chánh tư duy(suy nghĩ đúng-suy nghĩ trong định) trên 1 đề mục, không để tâm chạy tán loạn để được tâm thân định gọi là thiền định. Khi tâm thân định rồi, không cột tâm vào 1 đối tượng nữa, mà để tâm tự do nhận biết mọi đối tượng như đối tượng đang là mà không khởi niệm gọi là thiền quán/thiền tuệ. 


  • Thiền định là cột tâm trên 1 đề mục không để tâm chạy tán loạn(suy nghĩ lung tung) để đưa tới định (= chánh niệm tương đối)
  • Thiền tuệ là thấy tất cả như nó đang là mà không khởi niệm (= chánh niệm tuyệt đối). (Chánh niệm là trọn vẹn với thực tại đang là. Chánh niệm là trọn vẹn tất cả như nó đang là. Còn thiền tuệ là thấy tất cả như nó đang là.)
  • Thiền định dùng tầm tứ, nổ lực chú tâm như cố gắng giữ yên lu nước để lắng cặn của lu nước đục để có nước trong. Nhưng cặn vẫn còn đó. Thiền tuệ thì dùng chánh niệm tỉnh giác soi sáng để thấy ra tất cả như nó đang là. Thấy ra chân tướng sự thật thì hết mê như gạt bỏ hết cặn chỉ còn nước trong. 


(Thiền là nhìn lại thân, thọ, tâm, pháp với chánh niệm (rõ biết như nó đang là) để đưa đến định, từ định sẽ thấy ra chân tướng, thực tánh pháp. 


THIỀN LÀ LÀM CHO THÂN TÂM YÊN TỈNH LẠI, LẮNG DỊU LẠI, CÓ KHẢ NĂNG CHUYÊN CHÚ VÀO 1 CẢNH, VÀO 1ĐỐI TƯỢNG DUY NHẤT - TÂM ĐƯỢC ĐỊNH LẠI, KHI ĐÃ ĐỊNH THÌ TA THẤY RA CHÂN TƯỚNG SỰ THẬT. 
- THIỀN LÀ NHÌN LẠI (soi sáng/chánh niệm) THÂN TÂM (ngũ uẩn) CỦA MÌNH
*Thiền định:
- Tập trung toàn tâm quán chiếu, tư duy tổng thể về 1 đề mục để tâm không chạy lang thang nên đưa tới định, định góp phần thấy ra chân tướng của đối tượng/đề mục mình đang quán chiếu. 
-Tâm biến đổi/suy nghĩ trên 1 đề mục/1đối tượng. Dùng quán chiếu (tầm tứ) trên 1 đối tượng - tâm tập trung, chú tâm đứng yên trên 1 đề mục. Cột tâm vào 1 đối tượng để tâm không chạy lung tung - tâm định trên 1 cảnh: “ Giữ thân tâm đưng lại rõ biết hơi thở ra vào đan điền”
*Thiền tuệ: là giữ tâm bất biến quán chiếu/ nhìn sâu vào trong lòng đối tượng để thấy ra chân tướng của nó. Tâm không biến đổi/không suy nghĩ nhưng đối tượng thì biến đổi như nó đang là. Quán thấy/Soi sáng thực tại như đang là. 

Thiền là tĩnh lự, làm lắng lắng lặng thân tâm, là trở về bản tâm thanh tịnh. 
-Thiền là soi sáng lại thân tâm, làm lắng lặng, buông thư thân tâm (hành thiền tứ niệm xứ...). Rồi tiến tới rõ biết tất cả đang như là - để không còn dính mắc riêng biệt vào đâu (khi đó mình chính là tất cả) - để rồi được tự tại, giải thoát. (Hành Thiền là để đi vào thực tại, cho đến khi tĩnh biết, thấy được hơi thở ra vào đan điền. Hành thiền giống như sạc năng lượng cho pin. Sống thiền thì giống như pin không bị hao hụt - khi tự tại thì không hao năng lượng)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét